Doanh số bán căn hộ cao cấp tại Tokyo cao hơn trong năm tài chính 2017, do giá bán trung bình của căn hộ mới xây dựng đạt 59.210.000 yên (552.300 đô la), mức cao nhất kể từ năm 1990. Đây cũng là năm thứ sáu mà doanh số tiếp tục tăng. Những con số này gần đây đã được phát hành trong một báo cáo của Viện Kinh tế Bất động sản (bằng tiếng Nhật).
Báo cáo bao gồm giai đoạn từ ngày 1 tháng 4 năm 2017 đến ngày 31 tháng 3 năm 2018 và khảo sát khu vực lớn ở thủ đô Tokyo, bao gồm Tokyo 23 phường, ngoại ô phía tây của Tokyo, và Kanagawa, Saitama và quận Chiba.
Dưới đây chúng tôi tóm tắt các điểm chính từ báo cáo.
Nguồn cung tăng lần đầu tiên sau 4 năm
Số lượng căn hộ mới được xây dựng để bán tại các khu vực lớn của Tokyo đạt 36.837 căn, tăng 1,1% so với cùng kỳ và là mức tăng đầu tiên kể từ năm 2013.
Sự gia tăng nguồn cung này bất chấp chi phí nhân công và vật liệu tăng trong vài năm qua. Cạnh tranh từ các nhà phát triển khách sạn để mua đất hiếm ở các khu vực trung tâm cũng đã làm giảm số lượng các đơn vị mới trong những năm gần đây. Số lượng căn hộ mới phát hành cao nhất trong một năm là 95.479 căn vào năm 2000.
Nguồn cung căn hộ mới không tăng ở tất cả các khu vực trên khắp Tokyo. 23 quận của Tokyo đã tăng 9,8% so với cùng kỳ năm ngoái về số lượng căn hộ mới. Bên ngoài 23 quận : ngoại ô phía tây Tokyo (giảm 16,0%), tỉnh Kanagawa (tăng 1,0%), tỉnh Saitama (tăng 7,6%), tỉnh Chiba (giảm 16,7%).
Các đơn vị mới xây dựng tại thành phố Tokyo (bao gồm 23 quận và vùng ngoại ô phía tây) chiếm 54,7% tổng số.
Tỷ lệ hợp đồng dưới mức “thị trường lành mạnh”
Tỷ lệ hợp đồng (số hợp đồng bán hàng chia cho số đơn vị phát hành để bán) trong khu vực lớn của Tokyo là 68,8%. Đây là mức thấp hơn mức 70% dự kiến trong một thị trường lành mạnh. Tuy nhiên, đây là mức tăng 0,3% so với cùng kỳ.
Giá bán và giá tính theo mỗi mét vuông theo vùng
Giá bán trung bình và giá bán trên mỗi mét vuông tăng ở tất cả các vùng được khảo sát. Đối với khu vực Tokyo nói chung, giá bán trung bình đạt 59.210.000 yên (tăng 6,9% mỗi năm) và giá trung bình trên mỗi mét vuông là 864.000 yên (tăng 7,9% so với cùng kỳ).
Đáng chú ý là cả giá bán trung bình và giá mỗi m2 tăng hai chữ số ở tỉnh Kanagawa (bao gồm các thành phố Yokohama, Kawasaki, Odawara, Kamakura và Sagamihara)
Vui lòng xem bảng phân tích theo vùng trong biểu đồ bên dưới:
Giá bán trung bình và giá mỗi m2 cho các căn hộ mới xây dựng ở khu vực lớn của Tokyo
Thời gian: 1/4/2017-31/3/2018 Nguồn: Viện Kinh Tế Bất Động Sản |
||||
Thành phố/ Khu vực | Giá bán trung bình( yên) | Thay đổi % YoY | Giá trung bình mỗi mét vuông (yên) | Thay đổi % YoY |
23 quận ở Tokyo | 70,080,000 | 3.60% | 1,082,000 | 5,70% |
Ngoại ô phía Tây Tokyo | 50,720,000 | 2.00% | 719,000 | 3.50% |
Khu vực Kanagawa | 56,610,000 | 12.50% | 790,000 | 11.40% |
Khu vực Saitama | 43,140,000 | 1.30% | 605,000 | 0.70% |
Khu vực Chiba | 43,100,000 | 5.40% | 596,000 | 5.90% |
Căn hộ được bán trong cùng ngày
Trong số tất cả các đơn vị phát hành để bán trong giai đoạn này, 1.968 căn hộ (chiếm 5,3% tổng số căn hộ) đã được bán cùng ngày mà họ đã đưa ra thị trường.
Biên dịch bởi: ST-Housing
Link bài viết gốc: https://resources.realestate.co.jp/news/sale-prices-for-apartments-in-greater-tokyo-hit-post-asset-bubble-high